Sunday, December 31, 2000

Cải tiến dược chất, dạng bào chế: Tăng hiệu quả trị bệnh

Bằng việc vận dụng kỹ thuật của công nghệ nano, các dược chất và các dạng bào chế nano đã được nghiên cứu phát triển nhằm khắc phục các nhược điểm tự nhiên của chúng.

Những cải tiến trong sản xuất thuốc theo công nghệ nano đem lại nhiều ích lợi cho người bệnh.

Những nâng cấp trong sản xuất thuốc theo công nghệ nano đem lại nhiều lợi ích cho người bệnh.

Tăng sinh khả dụng đường uống

Một trong những khiếu nại to nhất ảnh hưởng đến sinh khả dụng của thuốc là khả năng hòa tan của dược chất. Để dược chất có thể được hấp thu vào cơ thể, dược chất phải cần được hòa tan thành dạng phân tử để có thể tiện lợi khuếch tán và hấp thu qua các kênh sinh học của cơ thể. Để giải quyết vấn đề độ tan cũng như sinh khả dụng của thuốc, công nghệ nano hướng tới việc chế tạo các hạt dược chất có kích thước bé (khoảng vài chục nanomet). Theo đó, lúc các hạt có kích thước bé thì tổng diện tích bề mặt của cùng một lượng hạt tăng lên đáng kể dẫn tới khả năng hòa tan của chúng cũng được cải thiện. Bên cạnh đó, công nghệ nano còn được áp dụng để bảo vệ dược chất tránh khỏi sự phân hủy và hấp thu tiện dụng hơn qua các hàng rào sinh học của cơ thể. Bằng việc chế tạo lớp vỏ bên ngoài, các hệ micelle hay liposome không duy nhất tác dụng bảo vệ dược chất bên trong mà còn giúp dược chất hấp thu tiện lợi hơn do cấu trúc như vậy với màng tế bào.

Kiểm soát nồng độ thuốc trong máu

Các thuốc được bào chế ở dạng nano còn có khả năng kiểm soát sự giải phóng của thuốc, nồng độ của thuốc được duy trì ổn định trong vùng cửa sổ điều trị và giảm số lần dùng thuốc. Ví dụ như nghiên cứu thay thể thuốc viên chứa Cyclosporine A hòa tan trong dầu ngô với chất nhũ hóa là oleate và linoleate do nhược điểm của viên nang này là sinh khả dụng và độ ổn định thấp. Các nhà khoa học đã tìm cách thiết kế lại cấu trúc hệ nhũ tương Cyclosporine A này bằng hệ vi nhũ tương để tránh sự thay đổi trong sinh khả dụng. Nghiên cứu này nhằm đưa hoạt chất đạt nồng độ ổn định trong huyết tương bằng cách sử dụng cấu trúc các phân tử nano rắn dạng lipid như một chất mang dùng đường uống. Cấu trúc nano lipid rắn này được hình thành từ nhũ tương dầu trong nước và thay pha lipid dạng lỏng bằng pha lipid dạng rắn tại nhiệt độ phòng và nhiệt độ cơ thể. Sau lúc thử nghiệm, kết quả phân tích mẫu máu ở các thời điểm khác nhau cho thấy sự ổn định nồng độ thuốc trong huyết tương. Như vậy, sự bài tiết thuốc từ hệ vi nhũ tương chậm đã tránh được nồng độ đỉnh ban đầu trong huyết tương nhưng vẫn đạt hiệu quả điều trị.

Các thuốc được bào chế bằng công nghệ nano có thể kiểm soát được nồng độ trong máu.

Các thuốc được bào chế bằng công nghệ nano có thể kiểm soát  được nồng độ trong máu.

Tác dụng hướng đích và giảm độc tính của các thuốc

Nhiều loại thuốc hóa trị liệu, đặc biệt là các thuốc điều trị ung thư có nhược điểm chung là gây độc không nguyện vọng đến các mô và cơ quan bình thường khác trong cơ thể, đặc biệt trên gan và thận; có độ thanh thải cao làm cho sinh khả dụng của thuốc trong cơ thể thấp. Công nghệ nano trong hóa trị liệu có khả năng cố gắng hiệu quả điều trị của các thuốc nhờ vào 2 vấn đề được giải quyết - đó là làm nâng cao sự phân bố thuốc tới khối u và làm giảm tác dụng gây độc. Các nhà nghiên cứu đã tìm cách làm giảm độ thanh thải của thuốc và nâng cao sự phân bố tới đích bằng cách thay đổi kích thước hình dạng hoặc đánh tráo đặc điểm bề mặt của các chất mang nano.

 

Công nghệ nano được vận dụng trong thay mới và phát triển thuốc để cải thiện độ tan, tăng sinh khả dụng, kiểm soát nồng độ thuốc trong máu, nâng cao cường khả năng điều trị và giảm độc tính của thuốc.

 

DS. Bùi Đức Trí

0 comments:

Post a Comment